Bệnh nha chu

Bệnh nha chu và vấn đề điều trị

I. Mở đầu

Câu hỏi bệnh nhân đặt cho bác sĩ điều trị là:

- Bệnh nha chu là điều trị được không?
- Làm thế nào để phòng ngừa được bệnh?

Về mặt điều trị, các dấu chứng lâm sàng phải lưu ý coi như là các mục tiêu của điều trị nha chu. Trong đó yếu tố thẩm mỹ hẳn nhiên là một trong những mục tiêu khó quyết định nhất mà điều này tương ứng với đòi hỏi cao của bệnh nhân.

Trong trường hợp bị bệnh viêm nha chu, sau khi khám cẩn thận, chẩn đoán chính xác, lập một kế hoạch điều trị, bệnh nhân sẽ được bác sĩ chuyên khoa nha nhu hoặc bác sĩ răng hàm mặt đa khoa thông tin cho biết: trình tự thực hiện kế hoạch điều trị đó, ý nghĩa, hiệu quả, kết quả của việc điều trị như thế nào. Từ các thủ thuật điều trị đơn giản đến các phương pháp điều trị phức tạp.

Kế hoạch điều trị được xác định tùy theo dạng bệnh khi bệnh nhân đến khám. Thông thường có 4 loại điều trị căn bản thường được áp dụng:

- Điều trị khẩn cấp.
- Điều trị không phẫu thuật.
- Điều trị phẫu thuật.
- Điều trị duy trì.

II. Điều trị
2.1. Điều trị khẩn
Khi nào bệnh nha chu được điều trị khẩn cấp? Chắc đây là câu hỏi chung của nhiều người.

Khi ở vùng nước hoặc niêm mạc có ổ mủ (áp xe = abcès) thì sẽ có chỉ định điều trị khẩn cấp.

Như vậy làm thế nào để biết được đó là ổ mủ nha chu? (thuật ngữ chuyên môn gọi là chẩn đoán).

Nếu có ổ mủ nha chu như vậy có tự điều trị được không? Hay phải đi khám bác sĩ chuyên khoa.

Thông thường người bị áp-xe như vậy hay có thói quen đến nhà thuốc tân dược khai khai và người bán thuốc hoặc dược sĩ bán một vài loại kháng sinh (theo kinh nghiệm). Nếu may đúng thuốc, đúng hàm lượng, liều lượng cho điều trị thì ổ mủ lúc bấy giờ giảm hoặc khỏi hẳn. Nhưng bệnh thì không khỏi. Tại sao?

Bởi vì ổ mủ chỉ là cơn cấp tính của bệnh. Nói ổ mủ thì phải phân biệt ổ mủ của nướu hay ổ mủ do bệnh viêm nha chu (chuyên môn gọi là chẩn đoán phân biệt). Vì mỗi loại này có cách điều trị khác nhau. Chỉ có bác sĩ răng hàm mặt đa khoa hoặc bác sĩ chuyên khoa nha chu chẩn đoán phân biệt được và cho kế hoạch điều trị chính xác.

Làm thế nào để chẩn đoán phân biệt thì không thuộc phạm vi bài này. Chỉ tạm tóm tắt là:

Khi cảm thấy, nhìn thấy hoặc sờ thấy một khối sưng ở vùng nướu hoặc niêm mạc có: màu đỏ, đau nhiều hay ít, sờ thấy phập phều nên đi khám bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán và có kế hoạch điều trị bệnh sớm (cho dù nếu có tự điều trị đẩy lui cơn cấp tính).

Nếu tự điều trị ổ mủ giảm, hết đau, không đi khám chuyên khoa thì sau đó sẽ như thế nào?

Bệnh vẫn tồn tại và đi vào trạng thái mạn tính và sau đó thỉnh thoảng bộc phát cơn cấp tính,cứ tái diễn theo chu kỳ và ngày bệnh càng thêm trầm trọng, nếu ở giai đoạn bệnh về nướu thì có thể chuyển sang giai đoạn bệnh viêm nha chu là giai đoạn nặng. Nếu là một ổ mủ của bệnh viêm nha chu thì bệnh diễn tiến tương tự theo chu kỳ, ngày càng trầm trọng hơn và răng lung lay nhiều hơn, cuối cùng đưa đến mất răng.

2.2. Điều trị không phẫu thuật

  • Đây là loại điều trị căn bản nhất và tỷ lệ áp dụng chiếm cao nhất và nó là bước điều trị đầu tiên cho mọi kế hoạch điều trị bệnh nha chu. Ở giai đoạn điều trị này, nếu có sự hợp tác của bệnh nhân thì kết quả rất khả quan. Do đó loại điều trị này phải do bác sĩ chuyên khoa thực hiện qua hai bước:

a. Điều trị sơ khởi:

  • Chỉ có bác sĩ chuyên khoa khám và đánh giá được các yếu tố thuận lợi cho sự lưu giữ mảng bám hoặc cản trở vệ sinh răng miệng và kiểm soát mảng bám vi khuẩn.

Ở bước điều trị này bác sĩ phải loại bỏ các yếu tố vừa kể:

- Sửa chữa hoặc thay thế tất cả những miếng trám không đúng kỹ thuật;
- Sửa chữa hoặc thay thế những phục hình không đúng kỹ thuật;
- Đánh giá và chỉ định răng cần nhổ (không thể giữ được);
- Cố định răng (nếu răng lung lay);
- Thực hiện phục hình tạm thời (nếu cần thiết).

b. Cạo cao răng, xử lý mặt gốc răng:
Cạo cao răng (vôi răng): Đây là một thủ thuật điều trị, không nhất thiết phải do bác sĩ thực hiện, và nó được chỉ định cho tất cả mọi kế hoạch điều trị nha chu, nhất là những trường hợp viêm nướu sẽ cho thấy kết quả rất khả quan. Cạo cao răng là thủ thuật nhằm loại sạch vôi răng mảng bám hoặc bằng dụng cụ cầm tay hoặc bằng máy siêu âm, làm làng mặt răng, tạo điều kiện cho mô nướu lành thương, trở lại trạng thái sinh lý của nướu. Do đó bệnh nướu răng là dạng bệnh nha chu có tính hoàn nguyên.

Một vấn đề bệnh nhân thường đặt ra cho bác sĩ là:
Cạo vôi răng như vậy có làm hư răng không? Đây là mối quan tâm chung của nhiều người và hợp lý của những người ngoài chuyên môn.

Về mặt chuyên môn, thủ thuật điều trị không làm hư răng, không làm mòn răng. Tại sao?
- Hư răng: ở đây thuật ngữ này muốn nói có ảnh hưởng đến bệnh lý tủy răng hay không?

Nếu sử dụng dụng cụ cầm tay thì không ảnh hưởng gì đến tủy răng vì thao tác này tuy có sự ma sát giữa dụng cụ và mặt răng, nhưng với một biên độ di chuyển rất ngắn, nhẹ nhàng của dụng cụ nên không làm tăng nhiệt độ có hại cho tủy răng.

Nếu sử dụng máy siêu âm thì bắt buộc phải có nước phun sương liên tục với hai mục đích: vừa không tăng nhiệt độ vừa rửa sạch vôi răng ngay khi bị đánh bật ra khỏi mặt răng, do đó cũng không ảnh hưởng gì đến tủy răng. Nhưng vì lý do gì đó lức sử dụng máy không có nước phun sương sẽ làm gia tăng nhiệt độ ở bề mặt răng, do đó không sử dụng máy trong tình trạng máy chạy không có nước phun sương.

- Mòn răng: không gây mòn răng cho dù với dụng cụ cầm tay hay với máy siêu âm, nếu người điều trị được huấn luyện, đào tạo cách sử dụng dụng cụ một cách thành thạo. Máy siêu âm là loạ máy rung với tần số cao làm bật vôi ra khỏi mặt răng chứ không có tác dụng mài mòn như máy siêu tốc dùng tạo xoang để trám răng. Hiệu ứng của máy cạo vôi siêu âm là đôi khi làm bệnh nhân có cảm giác ê buốt, nhưng đấy là cảm giác nhất thời và hồi phục tức thì không gây hại cho răng.

Tuy nhiên nếu sử dụng dụng cụ không thành tạo sẽ có nguy cơ: hoặc làm tổn thương mô mềm với dụng cụ cầm tay và tổn thương mô cứng với máy siêu âm (trầy, sướt bề mặt răng).

Trên đây là hai phương tiện cạo vôi răng phổ biến nhất, hiệu quả nhất.

Xử lý mặt gốc răng
Thủ thuật này được sử dụng để điều trị viêm nha chu, gọi là điều trị không phẫu thuật do bác sĩ RHM đa khoa thực hiện nếu bệnh viêm nha chu nhẹ nghĩa là túi nha chu không sâu lắm, độ mất bám dính ít, tiêu xương trên xương. Nếu bệnh nặng hơn, túi nha chu sâu ( 5mm, mất bám dính nhiều, tiêu xương ổ trầm trọng, túi dưới xương hoặc túi trong xương) phải do bác sĩ chuyên khoa nha chu khám và điều trị. Dù ở mức độ nào của bệnh, nếu sau khi điều trị không phẫu thuật bệnh không thuyên giảm, bước điều trị kế tiếp phải do bác sĩ chuyên khoa nha chu tái khám và thực hiện điều trị bằng phẫu thuật.

2.3. Điều trị phẫu thuật
Phẫu thuật chỉ áp dụng khi nào đã áp dụng các biện pháp điều trị thông thường bệnhj không có dấu hiệu đáp ứng.

Có nhiều kỹ thuật phẫu thuật nha chu chỉ do bác sĩ chuyên khoa nha chu thực hiện các loại điều trị này. Bài này không trình bày các kỹ thuật phẫu thuật.

2.4. Điều trị duy trì
Điều trị duy trì là gì? Có thể nói một bệnh nhân chuyển sang điều trị duy trì là bệnh đã được điều trị tốt. Và điều trị duy trì có nghĩa là làm thế nào để bệnh không tái phát, nói một cách khác là kiểm soát được bệnh bằng cách kiểm soát màng bám vi khuẩn và tái khám định kỳ. Vậy giai đoạn điều trị duy trì này kéo dà bao lâu? Đây là câu hỏi được nhiều người đặt ra. Đã bị bệnh viêm nha chu thì điều trị duy trì là giai đoạn kéo dài suốt thời gian còn tồn tại các răng trên cung hàm.

III. Kết quả
Kết quả điều trị rất tùy thuộc vào nhiều yếu tố:

Nếu ở thời kỳ chỉ là bệnh viêm nướu thì kết quả điều trị rất khả quan nên bệnh nướu la bệnh hoàn nguyên nghĩa là sau khi điều trị nướu trở lại trạng thái bình thường như trước khi bị bệnh.

Nếu đã là viêm nha chu thì kết quả tùy thuộc vào độ sâu của túi, mức độ tiêu xương, phương tiện, phương pháp và kỹ năng điều trị của bác sĩ các yếu tố nguy cơ của bệnh nhân nếu có. Tuy nhiên còn một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả, đó là sự hợp tác của người bệnh trong suốt quá trình điều trị.

IV. Vai trò của bệnh nhân trong điều trị

  • Có thể nói trong điều trị bệnh viêm nha chu bác sĩ chỉ đem lại hiệu quả của phương pháp còn kết quả đạt được sau cùng phải nói bệnh nhân có một vai trò rất quan trọng. Nói một cách khác sự hợp tác của bệnh nhân có vai trò điều dưỡng như trong điều trị các bệnh toàn thân, còn bác sĩ là vai trò điều trị thì rõ ràng nếu không có điều dưỡng tốt thì kết quả điều trị sẽ không tốt và ngược lại. Điều này đã chứng tỏ trong lâm sàng và nói lên tầm quan trọng của sự hợp tác giữa thầy thuốc và bệnh nhân trong điều trị.

V. Kết luận

  • Bệnh nha chu chiếm tỷ lệ ká cao trong các bệnh răng miệng và là một nguyên nhân nổi bật của sự mất răng. Do đó dự phòng bệnh nha chu là việc làm cần thiết và quan trọng hơn là điều trị. Khi chưa mắc bệnh, phải dự phòng không để bệnh xảy ra. Khi đã bị viêm nưới phải tích cực điều trị để không bị bệnh viêm nha chu. Khi đã mắc phải bệnh viêm nha chu, không do dự, phải tích cực điều trị sớm ở một bác sĩ chuyên khoa nha chu với một thái độ hợp tác triệt để, nhất là khi chuyển sang điều trị duy trì. Nếu theo một trình tự dự phòng như thế thì nhất định chúng ta sẽ có được một sức khỏe răng miệng tốt lúc nào cũng có một nụ cười tươi, thoải mái trong sinh hoạt và lúc nào cũng tự tin trong giao tiếp.

 

BS. Trần Giao Hòa

Khoa Răng Hàm Mặt - Trường Đại học Y Dược TP. HCM